46
Bia đề danh Tiến sĩ khoa thi năm Quý Sửu (1673)

Niên hiệu: Dương Đức thứ 2 (1673)

Ngày dựng: Ngày 2 tháng 3 năm 1717

Kích thước:

Bia: Chiều cao 167cm, chiều rộng 100cm, dày 17cm

Đế bia (rùa): Chiều dài 159cm, chiều rộng 106cm, chiều cao 33cm

Đặc điểm: Trán bia trang trí theo hình thức mây vờn, rồng chầu mặt trời (trăng). Diềm bia: trang trí hoa văn lá lật. Rùa: đầu ngẩng cao, mai rùa không chạm khắc.

Thông tin chi tiết: Mùa đông năm Quý Sửu, vua Lê Gia Tông cho mở khoa thi Hội, sai Đề điệu là Thái tể, Bỉnh Quận công Trịnh Quế, Tri cống cử là Lễ bộ Tả thị lang, Phượng Trì nam Nguyễn Quốc Khôi, Giám thí là Lễ bộ Hữu Thị lang, Bồi tụng, Nhập thị Kinh diên, Thọ Nham tử Nguyễn Đình Chính, Hình bộ Hữu thị lang, Nguyên Lĩnh nam Bùi Đình Viên cùng các quan hữu ty chia giữ các việc. Sĩ tử đến kinh dự thi đông tới trên 3.000. Qua trường bốn, chọn được hạng xuất sắc 5 người.

Ngày 16 tháng 12 năm đó, 5 người vào sân Điện trả lời sách vấn, nhà vua ban cho Bùi Quang Vận, người xã Tiểu Lan, huyện Đông Yên (nay là xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) cùng 5 người đều đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Ngày 22, quan Hồng lô xướng danh. Ngày hôm ấy bộ Lễ rước bảng vàng treo ngoài cửa nhà Thái học để sĩ tử vẻ vang trông vào. Tháng Giêng năm Giáp Dần, tuân theo lệ cũ, nhà vua cấp biển gỗ ghi danh hiệu nhà vua ban cho từng người để tỏ sự ưu ái đặc biệt, đồng thời ban cho họ áo mũ để trang phục đẹp đẽ, lại cho dự yến Quỳnh Lâm sang trọng, lại lấy tiền kho cấp để chi dùng, ơn vinh theo thứ bậc y như lệ cũ.

45 năm sau (1717), bia Tiến sĩ khoa thi năm này mới được dựng. Vua Lê Dụ Tông giao cho Cẩn Sự lang, Hàn lâm viện Hiệu lý, tri Thị nội Thư tả Thuỷ binh phiên Nguyễn Quý Ân soạn văn bia Đề danh Tiến sĩ để lưu lại đời sau, “khiến cho những ai xem đến tấm bia này thì soi vào đó để làm răn. Như thế thì phong hoá có thể gây dựng được, người xem bia này phải nên suy nghĩ”. Tá Lý công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu phó, Liêm quận công Nguyễn Quý Đức nhuận; Thị nội Thư tả Hộ phiên, Tiến Công thứ lang, Huyện thừa Phạm Toàn viết chữ; Kim Quang môn Đãi chiếu, Triện thích Thái hàm, Tự thừa, Liêu Tường nam Nguyễn Đình Huy khắc chữ.