Niên hiệu: Khánh Đức thứ 4 (1652)
Ngày dựng: Ngày 16 tháng 11 năm 1653
Kích thước:
Bia: Chiều cao 147cm, chiều rộng 105cm, dày 25cm
Đế bia (rùa): Chiều dài 143cm, chiều rộng 105cm, chiều cao 20cm
Đặc điểm: Trán bia trang trí mây, rồng chầu mặt trời (trăng). Diềm bia: chim muông, hoa dây. Rùa: đầu ngẩng cao, mai rùa không chạm khắc.
Thông tin chi tiết: Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức 4 (1652), sĩ tử tham dự kỳ thi lên đến 2.000 người, chọn hạng xuất sắc được 9 người.
Vào thi Đình, vua Lê Thần Tông đích thân ra đề văn sách. Đặc sai Đề điệu là Thiếu phó La quận công Trịnh Tương, Tri cống cử là Hình bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm Viện Thị giảng Tham chưởng Hàn lâm Viện sự Bạt quận công Dương Trí Trạch, Lại bộ Tả Thị lang Mỹ Thọ hầu Nguyễn Quang Minh, Giám thí là Hộ bộ Hữu thị lang Diễn Thọ bá Nguyễn Văn Trạc, Lễ bộ Thị lang Văn Phú bá Nguyễn Sĩ Chính và Ngự sử đài Phó đô ngự sử Diễn Thọ bá Lê Kính chia nhau làm các việc. Sau khi đọc quyển, vua ban cho 2 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) là Phùng Viết Tu người xã Đình Luân, huyện Gia Lâm (nay thuộc xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) và Phạm Chất người xã An Bài, huyện Đông Thành (nay thuộc xã Diễn Hùng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An), ban cho 7 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Năm 1653, Bộ Công cho dựng bia đá Đề danh Tiến sĩ khoa thi này. Văn bia này do Cẩn sự lang Hàn lâm viện hiệu thảo Nguyễn Đình Chính soạn. Dực vận Tán trị Công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm Viện Thị giảng Tham chưởng Hàn viện sự Bạt quận công Dương Trí Trạch nhuận sắc. Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Trung thư gián điển thư, người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm là Gia Thụy tử Nguyễn Tuấn Đắc viết chữ. Quang tiến lộc Đại phu Kim quang môn đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa là Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ khắc chữ.