Niên hiệu: Khánh Đức thứ 2 (1650)
Ngày dựng: Ngày 16 tháng 11 năm 1653
Kích thước:
Bia: Chiều cao 155cm, chiều rộng 107cm, dày 29cm
Đế bia (rùa): Chiều dài 161cm, chiều rộng 108cm, chiều cao 25cm
Đặc điểm: Trán bia trang trí mây, rồng chầu mặt trời (trăng). Diềm bia: chim muông, hoa lan. Rùa: đầu ngẩng cao, mai rùa không chạm khắc.
Thông tin chi tiết: Khoa thi Hội năm Canh Dần niên hiệu Khánh Đức thứ 2 (1650), chọn hạng ưu tú được 8 người.
Đến ngày 12, tháng Chạp, vua Lê Thần Tông đích thân ra đề thi văn sách hỏi về đạo lý làm chính sự. Quan Đề điệu là Thiếu phó Bỉnh quận công Trịnh Khuê, Tri cống cử là Lễ bộ Thượng thư tri Kinh diên sự Thiếu bảo Dương quận công Nguyễn Nghi, Giám thí là Lại bộ Tả thị lang Mỹ Thọ hầu Nguyễn Quang Minh, Ngự sử đài Phó đô Ngự sử Diễn Thọ bá Lê Kính chia nhau làm các việc. Sau khi đọc quyển, vua ban cho 1 người đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) là Khương Thế Hiền người xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ (nay thuộc xã Bình Lãng, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương) và 1 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) là Nguyễn Văn Lễ người Dương Trai, huyện Hương Sơn (nay thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), ngoài ra ban cho 6 người đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Năm 1653, Bộ Công cho dựng bia đá Đề danh Tiến sĩ khoa thi này. Văn bia này do Cẩn sự lang Hàn lâm viện hiệu thảo Nguyễn Đình Chính soạn. Dực vận Tán trị Công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm Viện Thị giảng Tham chưởng Hàn viện sự Bạt quận công Dương Trí Trạch nhuận. Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu Trung thư gián điển thư, người xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm là Gia Thụy tử Nguyễn Tuấn Đắc viết chữ. Quan tiến lộc Đại phu Kim quang môn đãi chiếu kiêm Triện thích thái thừa là Quế Lan nam Nguyễn Quang Độ khắc chữ.